Thứ Ba, 28 tháng 1, 2014

Tiếng kêu cứu của tù nhân lương tâm Hồ Thị Bích Khương


Ngày 26/1/2014 vừa qua, cháu Nguyễn Trung Đức, con trai duy nhất của tù nhân lương tâm Hồ Thị Bích Khương, đã vào trại giam số 5 Thanh Hóa để thăm mẹ.

Khi về nhà cháu cho tôi biết: Hiện tại chị Bích Khương đang rất yếu, gầy và xanh xao. Theo lời cháu Đức kể lại thì thời gian vừa qua do xương vai bị gẫy đã lâu không được chữa trị nên đã thành tật và rất đau đớn. Chị không thừa nhận là mình có tội gì và vì chỗ xương gẫy đau nhức liên tục nên chị không tham gia lao động “cải tạo”. Nhưng vì vậy mà cán bộ trại giam chỉ thị cho các tù nhân khác đánh đập chị nhiều lần. Chỉ trong tháng 1/2014 chị đã 2 lần bị những phạm nhân cùng buồng giam là những người nghiện ma túy đánh đập. Trong lúc gặp con trai mình chị không thể nói hết được những sự kiện đã xảy ra với chị trong nhà tù, vì có tới 4 công an giám sát buổi nói chuyện. Chị chỉ có thể nhắn nhủ ra ngoài rằng mong mọi người hãy cầu nguyện và lên tiếng bênh vực cho chị.

Xin nhắc lại đây là lần thứ 3 chị Hồ hị Bích Khương bị nhà nước CHXHCNVN kết án. Chị bị bắt lần thứ 3 vào ngày 15/1/2011 bị cáo buộc tội danh “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN” theo điều 88 Luật Hình Sự. Sau đó chị bị kết án 5 năm tù giam và 3 năm quản chế. Hoàn cảnh gia đình chị rất neo đơn bởi chồng chị đã qua đời. Chị chỉ có một con trai duy nhất hiện đang theo học bổ túc văn hóa tại Trung tâm giáo giục thường xuyên tỉnh Nghệ an.

Cháu Đức rất lo lắng việc chị Bích Khương có thể chết trong tù vì vết gẫy xương vai vẫn thường làm chị lên cơn sốt, lại thêm những trận đòn tập thể của các tù nhân khác. Hai năm tù còn lại là quãng thời gian vô cùng tăm tối cho chị.

Kính mong các cơ quan theo dõi nhân quyền quốc tế và các nhà đấu tranh dân chủ trong, ngoài nước lên tiếng bênh vực chị.

Thanh Hóa ngày 28/1/2014
Nguyễn Trung Tôn
ĐT: 01628387716

Email: nguyentrungtonth@gmail.com

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

Trí óc Việt Nam cần được giải phóng



Khi tôi còn rất nhỏ, chắc chỉ khoảng 3 hay 4 tuổi gì đó, khi mà cuộc chiến tranh hai miền Nam – Bắc vẫn đang tiếp diễn, trẻ con chúng tôi đã được nghe rất nhiều những câu chuyện với đại ý: cả những con vật vô tri cũng biết căm thù “Mỹ - Ngụy”. Tôi còn nhớ từ những chuyện “Trâu cũng biết đánh giặc” tới chuyện phân biệt kiến ta kiến địch. Người lớn nói với chúng tôi rằng loài kiến đen là kiến cộng sản, loài kiến đỏ là kiến “Ngụy”. Kiến đen là của phe mình  không cắn đốt ai cả. Kiến đỏ là kiến của “Mỹ - Ngụy” nên chúng thường hay cắn đốt người. Tôi và chắc hầu hết bạn bè tôi đều ngây thơ tin tất cả những câu chuyện này. Mỗi khi tôi nghịch bị kiến đốt là tôi lại thấy rất căm thù “Mỹ - Ngụy”.

Những câu chuyện thời trẻ con tương tự như vậy đã in đậm trong suy nghĩ của tôi. Tôi căm thù “Mỹ - Ngụy” đã giết chết những người thân của tôi cùng bao nhiêu đồng bào khác nữa.


Cho tới năm 1981, lúc này tôi đã 10 tuổi, tôi được bố tôi đưa vào Sài Gòn thăm gia đình bác ruột tôi. Người anh này của bố tôi đã bỏ xứ ra đi từ bao giờ tôi không rõ. Bác tôi đã lấy vợ sinh con, và sống tại Sài Gòn. Bác tôi có một người con lớn. Trước năm 1975 anh ấy học trong một trường sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Sau khi Miền Nam thất trận, anh bị bắt đi "học tập cải tạo". May nhờ bố tôi làm giấy tờ xác nhận gia đình tôi là gia đình “có công cách mạng” nên anh được rút ngắn thời gian cải tạo. Năm 1981 khi tôi vào Nam thì bác tôi đã qua đời. Anh trai cả của bác là người đón tiếp chúng tôi.

Mặc dù mới mười tuổi nhưng lúc này trong tôi đã có nhiều thắc mắc rất lạ. Sao trước đây tôi nghe người lớn kể rằng “Ngụy” rất xấu xa độc ác nhưng lúc đó tôi thấy anh tôi lại rất hiền lành và tình cảm với chúng tôi. Cũng nhờ mối quan hệ gia đình ở Sài Gòn nên có dịp vào đây một hai lần, gặp gỡ những người mà trước đây tôi vẫn gọi là “Ngụy”, tôi mới được biết và sau đó mới thấu hiểu tấm lòng của họ. Họ cũng như tôi, cũng là người Việt Nam, cũng máu đỏ da vàng, thậm chí cùng là họ hàng máu mủ của tôi. Ấy vậy mà trước đây sao tôi lại căm thù họ tới vậy! Tôi bắt đầu thay đổi suy nghĩ của mình về cuộc chiến tranh đầy đau khổ này.

Vì cuộc chiến tranh đó mà gia đình tôi phải ly tán. Vì nó mà máu đồng bảo tôi ở cả hai miền phải đổ ra quá nhiều. Tôi không còn căm thù những người mà trước đây tôi xem là “Ngụy” nữa. Ngược lại, tôi biết họ chính là đồng bào, bà con, họ hàng, ruột thịt của tôi.

Xin lỗi quý độc giả tôi hơi miên man một chút trước khi đi thẳng vào vấn đề. Điều thắc mắc lớn còn lại trong lòng tôi đến ngày nay là tại sao những người cộng sản, hay nói đúng hơn là các lãnh đạo CSVN, vẫn còn hằn thù những người lính VNCH và gia đình họ tới như vậy - những người mà họ không ngừng gọi là “Ngụy”. Tại sao thù hằn tới độ đập phá nghĩa trang Biên Hòa? Tại sao thù hằn đến độ gây sức ép lên cả chính quyền Indonêxia để đập bỏ bia tưởng niệm các thuyền nhân Việt Nam - mà họ dán nhãn là "gia đình Ngụy"- đã bỏ mạng trên biển? và còn nhiều dẫn chứng khác nữa.

Ngày 19/1/2014 vừa qua, tức ngày kỷ niệm 40 năm cuộc Hải chiến Hoàng sa, tại tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội, một số công dân mang tính đại diện cho bà con khắp nơi muốn công khai bày tỏ tấm lòng tri ân đối với những người đã hy sinh tính mạng vì sự toàn vẹn của đất nước. Đây là một việc làm rất đáng được trân trọng và hoàn toàn nằm trong tập tục, văn hóa Việt Nam, cũng như đúng với truyền thống anh hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Thế nhưng họ đã không thể làm được như tâm nguyện trước sự quấy phá bằng nhiều hình thức của những lực lượng nhân danh cái gọi là “chính quyền”. Chắc quý vị đã đọc nhiều bài tường trình của những người có mặt tại chỗ.

Kính thưa quý vị, một chính quyền của dân, do dân và vì dân thì không bao giờ lại có những hành động thiếu văn hóa, vô đạo đức, thất nhân tâm như vậy. Đến gỗ đá cũng phải đau lòng!

Tôi nghiệm thấy nguyên nhân chính đã đẩy lãnh đạo đảng tới tận cùng của sự tối tăm đó chính là ý thức hệ, rồi họ buộc cả nước phải đi theo. Kết quả là cả dân tộc này đang bị trói buộc làm nô lệ cho chủ nghĩa Mác-Lê giữa lòng nhân loại ở đầu thế kỷ 21. Chủ nghĩa này đã ngang nhiên chiếm ngự mọi mặt từ đời sống hàng ngày tới lề lối suy tư của người dân trên cả nước Việt Nam, bất kể thực tế là nó đã bị nhiều dân tộc loại bỏ ở khắp Đông Âu và ngay tại nước sản sinh ra nó là Liên Xô. Ở Việt Nam, với tình trạng suy thoái mọi mặt của xã hội, sợi xích vô hình này càng cần phải gỡ bỏ ngay lập tức. Nhưng thật đáng thất vọng khi ngay cả bước đầu tiên và chỉ mới mang tính lý thuyết là việc bỏ điều 4 - một điều quá nghịch lý, nghịch thời - ra khỏi bản Hiến pháp mới mà vẫn không dám làm. Lãnh đạo đảng phê phán rất rõ và rất hăng các căn bệnh trầm trọng của xã hội, từ lạm quyền đến tham nhũng, và cũng thấy rất rõ bài thuốc để chữa tận gốc. Nhưng khi đến khâu đưa giải pháp vào thực hiện thì lãnh đạo đảng đều run rẩy lùi bước và lại đưa lợi ích của cá nhân mình và phe nhóm lên trên tất cả.

Thế là các chủ nghĩa mang tính bùa ếm đó tiếp tục làm cho con người Việt Nam ngày càng ít tính nhân bản và càng trở nên tàn nhẫn, độc ác với nhau. Nó tiếp tục tạo lằn ranh chia cắt tình huynh đệ, nghĩa đồng bào. Và quan trọng hơn cả, nó tiếp tục làm dân tộc ta suy úy, mở ra cơ hội cho Trung Quốc xâm chiếm dần từ lãnh thổ, lãnh hải đến kinh tế và văn hóa. Nếu không thoát được cái vòng “Kim cô” đang kềm hãm cả dân tộc Việt này, thì việc mất luôn những đảo còn lại tại Trường Sa chỉ còn là vấn đề thời gian và tiến trình biến Việt Nam thành một tỉnh của Trung Quốc sẽ không còn chận lại được nữa trong thập kỷ tới.

Muốn xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh thật sự và nhất là muốn giữ lấy Tổ Quốc Việt Nam thì điều đầu tiên dân tộc Việt Nam phải làm là phải tìm cách giải phóng chính mình ra khỏi sợi xích vô hình mà lãnh đạo đảng không đủ can đảm để đụng đến. Một khi đại khối dân tộc chúng ta không còn lề thói suy nghĩ dưới bóng chủ nghĩa Mác-Lê nữa, thì những người cần được giải phóng kế tiếp chính là những người trong Quân đội và Công an, để các anh không còn phải “Trung thành với đảng trước rồi tổ quốc sau” hay “Chỉ biết còn Đảng còn mình”. Chính nhân phẩm các anh được phục hồi.

Bởi quy luật tất yếu của xã hội đã được cả nhân loại chứng minh: Khi trí tuệ con người không còn bị kềm hãm thì độc tài nhất định phải bị triệt tiêu để nhường chỗ cho một xã hội dân chủ, công bằng, và tự chữa được bệnh tật để đi lên.

Chúng ta cùng giúp nhau và giúp dân tộc gỡ bỏ cái vòng kim cô hiểm độc này ra khỏi trí óc của mình.

Thanh Hóa ngày 24/1/2014
Nguyễn Trung Tôn

ĐT: 01628387716

Thứ Tư, 8 tháng 1, 2014

Xã Hội Dân Sự - Liều Thuốc Giải Độc Cho Dân Tộc Việt Nam.



Dân tộc Việt Nam vốn là một dân tộc anh hùng, có truyền thống chống giặc ngoại xâm. Bởi truyền thống quý báu đó mà trong hơn bốn ngàn năm qua, mặc dù đã nhiều lần bị giặc Phương Bắc đô hộ tổng cộng hàng ngàn năm và giặc tây đô hộ hàng trăm năm, nhưng bất cứ giai đoạn nào Việt Nam ta vẫn có những anh hùng hào kiệt cả nam lẫn nữ, sẵn sàng hy sinh tuổi thanh xuân, vượt lên trên mọi nỗi sợ hãi để phát động quần chúng cùng đứng lên chống lại kẻ thù, giành lại chủ quyền tổ quốc và danh dự dân tộc.

Từ năm 1945 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên cả 2 miền, dưới sự cai trị của người và chủ nghĩa Cộng sản -- một chủ nghĩa ngoại lai núp bóng dân tộc -- họ đã đẩy lùi nước ta trở về với lạc hậu, biến người dân dần dần trở nên hèn nhát và thụ động. Độc lập dân tộc, tự do dân chủ
là niềm ước ao khao khát của bất cứ một quốc gia dân tộc nào trên thế giới, đặc biệt với một quốc gia thuộc địa như Việt Nam trước năm 1945. Bởi sự khát khao này của người dân Việt Nam mà Cộng sản Quốc tế đã dễ dàng thông qua ông Hồ Chí Minh để đưa chủ thuyết của họ xâm nhập vào Việt Nam với danh nghĩa “giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước” . Cũng dưới danh nghĩa này mà Đảng Cộng sản đã dễ dàng quy tụ được quần chúng. Chỉ sau khi nắm trọn quyền hành trong tay, Cộng sản Việt Nam mới đóng chặt mọi cánh cửa với thế giới tự do bên ngoài (ngoại trừ một số nước cùng theo chủ nghĩa Cộng sản). Từ đó tước đoạt đi những quyền căn bản của người dân.

Dưới hình thức của các tổ chức xã hội tập hợp dưới cái gọi là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đảng Cộng sản đã dễ dàng thực hiện các bước đầu độc tư tưởng người dân. Thông qua các tổ chức xã hội như Đội Thiếu niên HCM, Đoàn Thanh Niên CSHCM, Hội Phụ Nữ, Hội Nông Dân … đảng đã thực hiện mọi biện pháp tuyên truyền làm biến dạng và lu mờ dần trong tâm trí quần chúng nhân dân về quyền tự do dân chủ thực sự. Đảng tự đề cao vai trò lãnh đạo của chính họ, triệt tiêu mọi ý thức phản kháng của nhân dân, dần dần hình thành trong quần chúng nhân dân những suy nghĩ thụ động, phó mặc, ỷ lại và đặc biệt là sợ hãi.

Nhờ đó đảng có thể tự tung tự tác, kể cả sử dụng những màn kịch bầu cử để tuyên bố rằng đại đa số nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của đảng. Khi đã thực hiện xong chính sách “ngu để trị” đối với đa số quần chúng nhân dân, đảng vẫn chưa yên tâm nên cũng thiếp lập nhiều chân rết của các "tổ chức xã hội" của họ tới từng địa phương cơ sở.

Đến khi các nước Cộng sản ở Châu Âu tan rã, Đảng Cộng sản bắt đầu buộc phải mở cửa buôn bán với các quốc gia dân chủ bên ngoài để tồn tại. Nhưng lúc này  bởi sự đầu độc tư tưởng kèm theo sự đe dọa uy hiếp kéo dài qua nhiều hình thức nên trong tâm trí đại đa số người dân đã không còn nhận diện được thế nào là dân chủ thực sự, mặc dù hai từ này vẫn được đảng Cộng sản đưa ra để mỵ lừa nhân dân và Quốc tế từ lâu.

Những năm gần đây nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin mà một số khá đông người dân đã được giải độc và vượt lên khỏi nỗi sợ hãi của chính mình để thực hiện những hoạt động tích cực như chúng ta đang thấy. Những đoàn dân oan kiên quyết đi khắp nơi kêu oan khiếu kiện. Nhiều anh chị em trẻ mạnh dạn lên tiếng đòi tự do dân chủ. Người Việt cùng nhau xuống đường biểu tình chống Trung Quốc xâm lược. Số người tham gia càng ngày càng đông, mặc dù Đảng cộng sản đã dùng nhiều thủ đoạn đàn áp trắng trợn. Họ không còn có thể dập tắt được những khát khao dân chủ thật sự.

Nhưng đáng tiếc là cho tới ngày nay mặc dù đại đa số người dân đều đã trực tiếp chứng kiến hoặc chính họ là nạn nhân của những bất công trong cuộc sống dưới tay các cán bộ đang nắm quyền nhưng phần lớn người dân vẫn chưa thoát được sự sợ hãi để lên tiếng phản đối và đòi lại các quyền của minh. Hầu hết còn chấp nhận cam chịu, phó mặc, hoặc ỷ lại cho một thế lực vô hình nào đó làm thay họ.

Vậy cách nào để có thể giải độc cho đại đa số đồng bào chúng ta không? Bởi hầu hết bà con chúng ta là nông dân, công nhân, và dân nghèo thành thị, họ không có điều kiện tiếp cận với thông tin đa chiều, không có thời gian để tim hiểu về dân chủ nhân quyền vì phải lo cho miếng cơm manh áo hàng ngày của gia đình. Đây là lực lượng đông đảo, đóng vai trò hệ trọng trong mọi đổi thay cho đất nước nhưng cũng bị nhiễm độc nhiều nhất qua hệ thống tuyên truyền của đảng Cộng sản. Đây là một thách thức lớn cho những người đang đấu tranh cho một nền dân chủ thực sự ở Việt Nam.

Năm 2013 đã xuất hiện một số đáng kể các hội đoàn Xã Hội Dân Sự tại Việt Nam bất chấp các nỗ lực ngăn cản đàn áp của nhà cầm quyền. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho nhân dân Việt nam. Trong năm 2014 này, liệu các hội đoàn Xã Hôi Dân Sự có thể nhân lên nhiều, có thể giải độc tư tưởng cho đại đa số nguời dân Việt Nam, và dần dần thay thể những tổ chức xã hội trá hình của đảng hay không vẫn còn tùy thuộc nhiều vào quyết tâm của tất cả chúng ta.

Tuy nhiên, điều có thể nói chắc là ước mơ trả lại cho dân tộc Việt Nam truyền thống oai hùng bất khuất và ước mơ canh tân, đưa những tư tưởng dân chủ tiến bộ và lòng tự trọng dân tộc thực sự tới quần chúng nhân dân, đã và đang là hoài bão của biết bao sĩ phu, trí thức Việt suốt hơn 200 năm qua. Nỗi thôi thúc đó chưa lúc nào ngơi nghỉ và nay đang là động cơ phía sau các nỗ lực phát triển Xã Hội Dân Sự -- con đường giải thoát dân tộc với tối thiểu đổ vỡ và thiệt hại.

Đã đến lúc giấc mơ 200 năm đó phải bắt đầu trở thành hiện thực trong năm 2014 này.

Thanh hóa ngày 6/1/2014
Nguyễn Trung Tôn
ĐT 01628387716